==HOTLINESHOW== ==HOTLINESHOWOTHER==

Quần thể đền thờ Tháp Chăm Pô Klong Garai này đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt vào năm 2016, được đánh giá là đẹp và hoành tráng nhất trong số những di tích Chăm còn sót lại trên bờ biển miền Trung Việt Nam, nơi từng là vương quốc Chăm Pa đã mất. Một địa điểm không thể bỏ qua đối với những người yêu thích lịch sử tại một khu vực có vẻ đẹp tuyệt vời vẫn còn được bảo tồn tốt khỏi du lịch đại chúng. Hãy cùng VietSense Travel khám phá biểu tượng văn hóa của người Chăm Ninh Thuận này nhé!

Tháp Po Klong Garai – Di sản kiệt tác nghệ thuật của người Chăm

Ninh Thuận: xứ sở của xương rồng, xứ sở của nắng gió và cát, chảo lửa của Việt Nam. Đến Ninh Thuận không thể không biết đến tháp Chăm hay tháp Chămpa Poklong Garai vẫn sừng sững trên ngọn đồi nhìn xuống toàn cảnh thành phố như một chứng nhân lịch sử cho những đổi thay của Ninh Thuận.

Tháp Chăm Pô Klong Garai - Ảnh 1

Tháp Chăm Pô Klong Garai tọa lạc trên đồi Trầu, ngay trong khuôn viên của thành phố lịch sử Panduranga, cách trung tâm thành phố Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận 7km về phía Tây, giữa hai khu du lịch biển nổi tiếng của Việt Nam: Nha Trang ở TP. phía bắc và Mũi Né ở phía nam. Tuyệt tác kiến ​​trúc Chăm này, đại diện cho một địa điểm tôn giáo quan trọng, là một quần thể gồm 3 tháp: tháp chính Po Klong Garai, tháp Lửa và tháp Công. Tháp Chàm Poklong Garai là ngôi đền thờ linh thiêng, được coi là biểu tượng và cũng là niềm tự hào của cộng đồng người Chăm sinh sống tại Ninh Thuận. Tháp được coi là niềm tự hào và là biểu tượng của người Chăm Ninh Thuận.

Truyền thuyết Chăm kể rằng tháp Po Klong Garai được vua Jaya Simhavarman III (sử Việt gọi là Chế Mân) xây dựng vào cuối thế kỷ 13 để thờ vua Po Klong Garai (1151 - 1205), người có công giúp người Chăm đánh giặc ngoại xâm, khai khẩn đất đai và phát triển sản xuất trang trại. Ông là người trị vì Vương quốc Champa từ năm 1285 đến năm 1307. Ông muốn tôn vinh vua Po Klong Garai, một người chăn cừu trẻ tuổi trước khi trở thành vua Chăm của Panduranga đầu tiên. Triều đại Champa, trị vì từ 1167 đến 1205. Po Klong Garai hay Jaya Indravarman IV được người Chăm tôn kính vì ông đã giải quyết vấn đề một cách hòa bình với những người Khmer dường như muốn xâm chiếm vương quốc của ông.

Tháp Chăm Pô Klong Garai - Ảnh 2

Khu di tích Tháp Chăm Pô Klong Garai được kiến ​​tạo bởi bàn tay khéo léo và kỹ thuật xây dựng độc đáo của người xưa, dù đã trải qua 800 năm tồn tại, cụm tháp phần lớn vẫn giữ được vẻ nguyên vẹn và uy nghiêm cho đến ngày nay. Những gì còn sót lại ở Pô Klong Garai là đỉnh cao của kiến ​​trúc và điêu khắc của một nền văn hóa đã từng lẫy lừng trong quá khứ.

Cụm tháp có quy mô tương đối lớn với tổng diện tích khoảng 10 ha tọa lạc trên ngọn đồi có tầm nhìn bao quát một góc thành phố Phan Rang – Tháp Chàm. 

Di tích có tổng diện tích 86.969,3m2 gồm: khu vực bảo vệ I: 15,715m2, khu vực bảo vệ: II 853,978m2. Trong phạm vi di tích, ngoài các khu vực sân, vườn, đường nội bộ, tường rào, cổng (cổng phía Đông và cổng vào di tích), kiến trúc phụ trợ, tổ hợp công trình phục vụ du lịch - văn hóa, miếu thờ, phế tích kiến trúc…, ngoài ra còn có 3 kiến trúc gốc khá hoàn chỉnh, gồm có tháp trung tâm (KaLan), tháp nhà và tháp cổng (Gopura). 

Vào tháng 8 năm 1901, nhà khảo cổ học người Pháp Henri Parmentier đã tiến hành khai quật di chỉ Po Klong Garai lần đầu tiên vào tháng 8 năm 1901. Là trưởng phòng Khảo cổ học của Trường Viễn Đông Pháp (EFEO) và là thành viên thiết yếu của tổ chức này từ khi thành lập vào năm 1898, Henri Parmentier được EFEO ủy nhiệm nghiên cứu và ghi lại các di tích Chăm ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Trung Trung Bộ - cái nôi của nền văn hóa Chăm. 

Tác phẩm của ông về Po Klong Garai đã mang lại một kiến ​​thức chính xác hơn về hai nền văn hóa thống trị ở Đông Dương lúc bấy giờ, văn hóa của vương quốc Champa và văn hóa của Đế quốc Khmer. Phần trung tâm của di chỉ Po Klong Garai, được gọi là Tháp Mẫm - Bình Định, rất giàu di tích khảo cổ Chăm. Hơn nữa, một phòng trưng bày dành riêng cho anh ấy tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng nơi trưng bày nhiều di tích Chăm Pa quan trọng của các đền đài Ấn Độ giáo được xây dựng từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15 khi trung tâm quyền lực của vương quốc Chămpa còn đóng đô.

Có thể nói, tháp Chăm là cụm tháp còn nguyên vẹn nhất cho đến ngày nay. Tháp Chàm Po Klong Garai bao gồm 3 tòa tháp, đó là tháp chính, tháp lửa và tháp cổng được xây bằng gạch đỏ sẫm. Tháp Po Klong Garai là một quần thể gồm 3 tháp: tháp chính, tháp lửa, tháp cổng. Tháp chính là nơi thờ tượng vua Po Klong Garai với mái vòm ở cửa và 2 cột đá lớn khắc chữ Chăm cổ, phía trên là bức phù điêu thần Siva sáu tay. Phía Đông là tháp cổng và tháp thần lửa nằm về phía Nam, mái hình thuyền.

Phía trước cụm di tích là Tháp Cổng cao hơn 5m, được chạm khắc hoa văn tỉ mỉ. Nơi đây là lối ra vào để tế lễ, cúng tế và đón tiếp khách quý của vua chúa ngày xưa. Phía nam là tháp Lửa có kiến ​​trúc đặc trưng của những ngôi nhà truyền thống của người Chăm. Tháp này được thiết kế với hai mái cong theo hình con thuyền - đây là nét văn hóa độc đáo của người Chăm xưa. Thuở xa xưa, tháp Lửa là nơi hành lễ của các nhà sư và là nơi cất giữ long bào, vật dụng của vua Chăm Pa. 

Đi xa hơn nữa là tháp Chính - trung tâm của kiến ​​trúc tháp Chăm Pô Klong Garai. Tháp chính cao hơn 20m, thiết kế nhiều tầng. Xung quanh các góc tháp có gắn tượng đá và biểu tượng lửa. Tháp này có cửa chính hướng Đông, phía trên chạm khắc hình tượng thần Siva - vị thần linh thiêng của người Chăm. Bên dưới là hai trụ đá đỡ tháp có khắc chữ Chăm cổ. Sâu hơn là bức tượng con bò bằng đá được chạm khắc, tương truyền là vật cưỡi của thần Siva. Bên trong có gian thờ vị vua có nhiều công lao to lớn trong quá trình trị vì đất nước với biểu tượng Mukha - Linga.

Ở mỗi công trình đều nổi bật với những nét chạm khắc tỉ mỉ, công phu với hình đuôi rồng, lá cây, bò, … thể hiện nét văn hóa, tín ngưỡng của người Chăm. Sự đồ sộ của tòa tháp khiến du khách không khỏi ngỡ ngàng, khó tin đây là những công trình được xây dựng từ nhiều thế kỷ trước.

Tháp là nơi linh thiêng, họ coi đây là trung tâm văn hóa tín ngưỡng nên hiện nay cộng đồng người Chăm vẫn thờ cúng theo tín ngưỡng tứ lễ. Xem xét sự tàn phá của thời gian và sự phát triển, bản thân các tòa tháp rất vững chắc và được trang trí tinh xảo. Người Chăm vẫn sử dụng tháp như một điểm hành hương. 

Thời điểm quan trọng nhất là Lễ hội Katê vào tháng 10, khi ngôi đền sống động với các nghi lễ, lễ vật và điệu múa truyền thống. Phan Rang Tháp Chàm là thủ đô cuối cùng của vương quốc Chăm trước khi nó bị người Việt chinh phục, vì vậy địa điểm này có ý nghĩa quan trọng đối với người Chăm dân tộc vẫn còn một chút khó khăn dưới sự cai trị của đa số người dân.

Cấu trúc chính chính của Tháp Chăm Pô Klong Garai

Di tích Tháp Chăm Po Klong Garai thuộc phong cách Tháp Mẫm. Phong cách của Tháp Mẫm, giữa thế kỷ 11 và 13, được coi là trang trí nhiều hơn và được phân biệt bởi các bộ phận đơn giản hóa nhưng với cách trang trí rất gọn gàng phản ánh kỹ thuật điêu khắc của các nhà điêu khắc thời bấy giờ. Tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, bạn có thể chiêm ngưỡng phong cách Tháp Mẫm với tượng Gajasimha bằng sa thạch hay tượng sư tử voi.

1. Tháp trung tâm (KaLan)

Đi xa là tháp Chính - trung tâm của kiến ​​trúc Tháp Chăm Pô Klong Garai. Tháp chính cao hơn 20m, thiết kế nhiều tầng. Xung quanh các góc tháp có gắn tượng đá và biểu tượng lửa. Phía trên lối vào tháp lớn nhất ( kalan, hay thánh địa) là một tác phẩm chạm khắc tuyệt đẹp về thần Shiva đang nhảy múa với sáu cánh tay. 

Tháp Chăm Pô Klong Garai - Ảnh 3

Lưu ý những dòng chữ bằng tiếng Chăm cổ trên các cột cửa. Những điều này kể về những nỗ lực khôi phục trong quá khứ và các lễ vật hy sinh và nô lệ. Nó có một bức phù điêu nổi tiếng với vẻ đẹp bí ẩn, được người dân địa phương đặt tên là Po Klaun Tri, có nghĩa là Người bảo vệ Tháp Đền. Các cột cửa có những dòng chữ Chăm cổ kể câu chuyện về quá trình trùng tu tháp qua nhiều năm và quan trọng nhất là lễ vật, tế lễ và nô lệ tham gia vào việc xây dựng và phục hồi Tháp Chăm Pô Klong Garai.

Tháp Chăm Pô Klong Garai - Ảnh 4

Đối với tòa tháp chính, được bảo tồn đẹp đẽ, nó được đặc trưng bởi sự tinh khiết của các đường nét và sự mộc mạc của các đồ trang trí. Phía trên cửa trước là một tác phẩm điêu khắc của thần Shiva, được coi là một trong những kiệt tác của phong cách Tháp Mẫm và được xếp vào di tích lịch sử - kiến ​​trúc còn sót lại của nghệ thuật điêu khắc Chăm. Tháp chính có pho tượng của vua Po Klong Garai (1151-1205) với biểu tượng Mukha - Linga. 

Bên trong tiền sảnh của kalan là tượng bò đực Nandin, phương tiện của thần Shiva trong đạo Hindu. Nandin cũng là một biểu tượng về năng suất nông nghiệp của vùng nông thôn còn được gọi là Kapil Ox. Theo truyền thống, những người nông dân sẽ đặt lễ vật gồm rau tươi, thảo mộc và hạt acena trước mõm của bức tượng như một lời cầu nguyện xin cho một vụ mùa bội thu. 

Bên dưới tháp chính của Po Klong Garai là một mukha-linga với hình vẽ mặt người và một kim tự tháp bằng gỗ được xây dựng bên trên. Tòa tháp có các cột gỗ có thể nhìn thấy được hỗ trợ mái nhà nhẹ. Một tảng đá có dòng chữ từ năm 1050 có thể được nhìn thấy từ một ngọn đồi gần đó. Nó kỷ niệm việc xây dựng một linga bởi một hoàng tử Chăm. Nơi đây dâng rượu, thắp hương.

Bên trong tòa tháp nhỏ hơn đối diện với lối vào khu bảo tồn, bạn có thể nhìn rõ một số công nghệ xây dựng tinh vi của người Chăm; có thể nhìn thấy các cột gỗ hỗ trợ mái nhà nhẹ. Cấu trúc gắn liền với nó ban đầu là lối vào chính của khu phức hợp. Là tháp thờ chính có quy mô lớn nhất và được xây dựng tọa lạc ở vị trí trung tâm ngọn đồi hơn 20m, mặt bằng bình đồ hình vuông với kích thước 10,5 x 10,5 m.

Một bể nước bằng bê tông do người Mỹ xây dựng năm 1965 nằm trên một ngọn đồi ở phía Nam Cho'k Hala. Xe tăng được bao quanh bởi các hộp đựng thuốc của Pháp được xây dựng lần lượt trong Chiến tranh Pháp - Việt Minh với mục đích bảo vệ các bãi đường sắt gần đó. Phía Bắc là kè bê tông của sân bay Thành Sơn do Không quân Việt Nam sử dụng năm 1975.

Đế tháp là một khối hình hộp được xây bằng gạch, có hình dạng giống một bệ thờ lớn được thắt tinh tế ở khoảng giữa, trong đó là những ô hộc chìm được thiết kế đăng đối. Dưới chân cột là những khối ốp hình trụ thon được trang trí tỉ mỉ, phía trên là một khối xây nhọn hình mũi lao được áp khăng khít vào chân cột. Cửa chính của lòng tháp được mở hướng về phía Đông, vươn khỏi thân tháp không đáng kể, được xây bằng gạch tạo ra 4 lớp cột cửa vuông vắn, nhô dần và vươn lên ra ngoài. 

Cột cửa ngoài cùng được tạo ra bằng chất liệu đá khối và được ghép lại thành khung cửa có đầu và chân mũ cột vuông, đặc biệt trên mặt đứng cột có khắc các dòng chữ Chăm cổ. Đỡ phía trên là mi cửa cũng bằng đá trơn giữ nguyên không trang trí. Vòm cửa ấn tượng với 4 lớp những hình mũi lao dần nhô ra, có diềm gắn các khối đất nung được trang trí tỉ mỉ các hoạt tiết hoa văn móc xoắn, cong cong hướng lên phía trên đỉnh vòm. Viên đá chốt là nơi kết thúc của đỉnh vòm, hình dáng tạo ra giống với hình dạng búp sen. 

Phía bên trong vòm cửa được, tượng hình thần Siva đứng trên bệ được tạc phù điêu, với 6 tay xòe giương ra và mũ chóp nhọn đội trên đầu, chân khuỳnh xuống giống trong tư thế đang nhảy múa. Xung quanh còn lại là hệ thống cửa giả, có hai lớp cột cửa nhô ra khỏi thân ngôi tháp và được bố trí đăng đối. Cột cũng được xây từ những viên gạch dạng khối, diềm vòm cửa được trang trí các văn hoa trên các hình đất nung, đây là dạng hoa văn uốn cong, móc hướng lên phía đỉnh. 

Bên trong vòm cửa là các hình ảnh phù điêu tu sĩ đang ngồi trên bệ thờ cầu nguyện - hai tay chắp trước ngực, trên đầu đội mũ khối trụ tròn, hai chân xếp bằng và lòng bàn chân ngửa lên. Đầu mũ và chân có nhiều lớp gờ xòe ra còn mặt đứng gờ không có hoạt tiết gì mà để trơn. Mỗi mặt tường của tháp được thiết kế 5 cột - để trơn không trang trí, dạng cột khối đơn, giữa các cột là một khe nhỏ kéo dài với nhiều lớp gờ được đục sâu vào tường ngôi tháp. 

Chính giữa là một dải gờ kéo dài và chạy dọc theo xung quanh thân tháp. Diềm mái của tháp có nhiều lớp gờ vươn nhô dần ra ngoài để đỡ lấy bộ mái. Lớp gờ giáp mái này với hình dạng được thiết kế uốn cong thành bát hướng lên phía trên, trên mặt các gờ được tạc họa tiết là hoa văn hình ảnh cánh sen xếp nghiêng liên kết thành một dải vây quanh rất tỉ mỉ. 

Mái táp là một cấu trúc gồm 3 tầng thu càng lên trên càng nhỏ dần. Tầng trên là một hình ảnh và cấu trúc thu nhỏ của tầng dưới, các tầng được phân cách bằng những diềm và có nhiều lớp gờ nhô dần ra uốn cong nhô lên trên. 

Ở tầng 1, bốn góc xung quanh đều được thiết kế các tháp góc trang trí tinh tế. Tháp góc có phía dưới là những khối gạch được xây tạo hình bệ thờ thắt giữa có cấu trúc thể hiện rất đơn giản, hai đầu uốn cong hướng ra đối xứng nhau, các mặt uốn được khắc hoa văn hình cánh sen dưới dạng nghiêng, xếp chồng lên nhau. Ở mặt phía trên được thiết kế với khối trụ 4 mặt thu nhỏ dần khi càng về phía đỉnh. 

Tầng 2 và tầng 3 có lối kiến trúc và hình ảnh  thể hiện tương tự như tầng 1 nhưng như đã nói hình khối nó càng lên trên càng thu nhỏ dần, khi càng lên trên tháp góc chỉ còn lớp đế mỏng và điểm dừng được kết thúc bằng khối đá trụ tròn là biểu tượng của Linga. 

2. Tháp cổng (Gopura)

Phía trước cụm di tích là Tháp Cổng cao gần 10m, được chạm khắc hoa văn tỉ mỉ trong cụm Tháp Chăm Pô Klong Garai. Nơi đây là lối ra vào để tế lễ, cúng tế và đón tiếp khách quý của vua chúa ngày xưa. Tháp là hình ảnh thu nhỏ của tháp chính và có mặt bằng hình vuông nằm ở phía Đông của tháp thờ chính. Tháp cho phép mở hai cửa theo hướng Đông Tây và đồng trục với lối cửa ra vào của lòng tháp thờ.

Tháp được xây trên nền một khối gạch vô cùng rộng lớn. Đế tháp hình khối như một bệ thờ có thắt giữa, nhưng chiều cao khá thấp. Tháp mở hai cửa đối xứng và thông với nhau qua thân tháp, phía trên là tấm mi cửa để trơn, chất liệu đá, kết cấu đỡ vòm cửa có hai lớp hình cung nhọn và các diềm vòm cửa có được trang trí bằng các khối đất nung gắn vào.

Bộ mái tháp có cấu tạo gồm 3 tầng càng lên trên càng thu nhỏ dần. Các tầng đều có các tháp góc để trang trí, các tầng được tách biệt bởi các hình điểm có gắn chi tiết trang trí bằng đất nung. Bốn mặt các tầng có 4 cửa cân đối xứng nhau trong lòng vòm cửa không có gắn phù điêu trang trí. Các tầng hai và ba cũng có cấu tạo tương tự và kết thúc đỉnh tháp là khối trụ tròn vươn lên đặc trưng biểu tượng linga.

3. Tháp nhà (Tháp lửa)

Phía nam là tháp Lửa có kiến ​​trúc đặc trưng của những ngôi nhà truyền thống của người Chăm. Tháp này được thiết kế với hai mái cong theo hình con thuyền - đây là nét văn hóa độc đáo của người Chăm xưa. Thuở xa xưa, tháp Lửa là nơi hành lễ của các nhà sư và là nơi cất giữ long bào, vật dụng của vua Chăm Pa. 

Sau khi leo lên một loạt các bậc thang bằng gạch, bạn sẽ đến tòa tháp đầu tiên trong số 3 tòa tháp của khu phức hợp, Tháp Lửa (Tháp Lửa) nằm trên đỉnh một ngọn đồi, được xây dựng nằm xế về phía Đông - Nam, phía trước tháp thờ. Tòa tháp này có mặt bằng hình chữ nhật, quay hướng Đông - Tây, toàn bằng gạch, cao hơn 9 mét, dài 8m, rộng 4m và có 4 lối vào. Ngôi tháp nhỏ này là một tháp vào và được sử dụng để chứa các đồ cúng dường cho các nghi lễ truyền thống trong quá khứ. 

Tháp nhà cũng có 4 lối vào hướng về 4 điểm chính. Tòa tháp thon dài này nổi bật bởi mái hình yên ngựa, thể hiện một cách hài hòa phong cách Tháp Mẫm của nghệ thuật Chăm. Tòa tháp này được biết đến là nơi dành riêng cho thần Lửa.

Lòng tháp được chia làm hai khu vực, mở ba cửa cho du khách, trong đó một cửa quay về hướng Đông và hai cửa thông nhau theo trục Bắc - Nam. Tháp được xây trên một nền lát gạch rất lớn, đế tháp được thắt giữa gồm nhiều lớp gờ nhô dần ra. Trong lòng tháp đến bây giờ vẫn còn giữ được nguyên vẹn bệ thờ Yony-Linga và phía trên Linga còn được thể hiện hình ảnh vị vua MuKhaLinga được thờ. Theo như trong truyền thuyết, hình ảnh vua PoKlaun Garai đã được hóa thân vào trong biểu tượng thờ thần Siva ở tháp.

Trong di tích tòa tháp này hiện tại còn có một tượng Linga Yoni - Pô Klong Garai; một tượng bò Nandin; một số tượng gắn xung quanh các tháp; hai bia ký khắc trên cửa tháp, một bia không còn chữ; một bia đá 3 mặt có chữ; một trụ đá (Linga) ở ngoài vòng thành phía Nam trong quần thể di tích tháp này và một tượng Kút hoàng hậu. 

Hàng năm, khu di tích Tháp Chăm Pô Klong Garai tổ chức nhiều nghi lễ tôn giáo, lễ hội truyền thống của người Chăm và biểu diễn văn nghệ. Một sự kiện nổi bật thu hút du khách và người dân địa phương là Lễ hội Katê, Tết của người Chăm Bà La Môn vào tháng 7 theo lịch Chăm, tức là vào tháng 9 hoặc tháng 10 theo lịch Gregorian.

Ở di tích Tháp Chăm Pô Klong Garai có bán các sản phẩm của làng gốm Bàu Trúc và làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp cho du khách tại Tháp Chăm Pô Klong Garai đã được 5 năm. Du khách mua nhiều sản phẩm mang về làm quà lưu niệm. Mang hàng dệt may thì dễ nhưng hàng gốm sứ thì khó hơn. Tại đây có dịch vụ ký gửi sản phẩm cho khách du lịch. Du khách cũng có thể ghé thăm 2 làng nghề để xem các nghệ nhân làm việc và mua quà lưu niệm.

Hàng năm, vào tháng 7 theo lịch Chăm (từ ngày 25 tháng 9 đến ngày 5 tháng 10), quần thể di tích Pô Klong Garai tổ chức lễ hội Katê, sự kiện quan trọng nhất trong năm của đồng bào dân tộc thiểu số này, người Chăm. Sự kiện kéo dài 3 ngày này kết nối cộng đồng người Chăm với các vị thần của họ và cho phép họ cầu nguyện cho những vụ mùa bội thu và sự an lành của tất cả chúng sinh. Vào dịp này, phụ nữ và trẻ em gái mặc trang phục sặc sỡ trong khi đàn ông mặc vest đỏ và trắng. Đây là cơ hội để thưởng thức các điệu múa, bài hát và âm nhạc truyền thống của người Chăm và hòa mình vào một nền văn hóa hấp dẫn.

Nơi đây không chỉ có ý nghĩa về mặt kiến ​​trúc mà còn là chốn rất linh thiêng đối với cộng đồng người Chăm Ninh Thuận nói riêng và người Chăm cả nước nói chung. Trải qua biến cố lịch sử và sự tàn phá của thời gian, Tháp Chăm Poklong Garai vẫn lưu giữ nguyên vẹn những hiện vật và giá trị truyền thống trong văn hóa Chăm. Qua bao thăng trầm, các tháp vẫn giữ được những hoa văn được chạm trổ tỉ mỉ, tinh xảo và đẹp mắt trên vòm, cột, diềm mái và cụm Tháp Chăm Pôklong Garai được xem là biểu tượng du lịch của xứ sở xương rồng.  

 

 

49 5 54 103 bài đánh giá
==HOTLINESHOW==