Lạng Sơn là một trong những cái tên được du khách trong và ngoài nước biết đến bởi cảnh đẹp và những nét văn hóa đặc sắc. Đây cũng là một trong những thắng cảnh ở Việt Nam với nhiều di tích lịch sử phản ánh thời kỳ chống phong kiến Trung Hoa của dân tộc Việt Nam. Lạng Sơn - biên cương của Tổ quốc, là mảnh đất rất thiêng liêng trong tâm thức mỗi người dân đất Việt, là cửa ngõ phía bắc của Tổ quốc, phía bắc giáp Cao Bằng, phía đông. Phía đông nam giáp Trung Quốc, phía nam giáp Quảng Ninh, phía nam giáp Bắc Giang, phía tây nam giáp tỉnh Thái Nguyên, phía tây giáp Bắc Kạn.
Những địa điểm đẹp tại Lạng Sơn
Khái Quát về Lạng Sơn
Lạng Sơn có diện tích tự nhiên 8.305,21 km2, 231,74 km giáp địa bàn của dân tộc Choang tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, có hai cửa khẩu quốc tế và đường sắt, một cửa khẩu chính và 9 cửa khẩu phụ. Hệ thống giao thông thuận tiện cả về đường sắt và đường bộ, các tuyến Quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279 nối Lạng Sơn với các tỉnh thành trong nước và nước ngoài. Thành phố Lạng Sơn nằm giữa một lòng chảo lớn, có dòng sông Kỳ Cùng chảy qua trung tâm thành phố. Đây là một dòng sông chảy ngược, bắt nguồn từ huyện Đình Lập của Lạng Sơn và chảy theo hướng Nam - Bắc về khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc. Thành phố nằm trên nền đá cổ, có độ cao trung bình 250 m so với mực nước biển, gồm các kiểu địa hình: xâm thục bóc mòn, cacxtơ và đá vôi, tích tụ. Lạng Sơn nằm trên độ cao 263m so với mực nước biển Khí hậu của Lạng Sơn được xếp vào loại ấm và ôn đới. Vào mùa đông, lượng mưa ít hơn nhiều so với mùa hè, nhiệt độ trung bình hàng năm là 21,9 °.
Lạng Sơn có dân số hơn 75 nghìn người, là nơi hội tụ của các dân tộc anh em với các dân tộc chính như Tày, Nùng, Kinh, Dao, Hoa, Mông, Sán Chay với các phong tục tập quán, dân ca then, đàn tính. hát then, đàn tính… làm say lòng người, những phiên chợ vùng cao, những sắc màu trang phục truyền thống, những làn điệu dân ca mang đậm bản sắc dân tộc… Lạng Sơn là vùng đất giàu tiềm năng phát triển du lịch, thể hiện ở truyền thống văn hóa gắn với truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng với hơn 300 lễ hội truyền thống đặc sắc. Được thiên nhiên ban tặng cho nhiều danh lam thắng cảnh và hang động kỳ thú như động Tam Thanh, động Nhị Thanh, động Nàng Tô Thị. Bên cạnh đó, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã có hơn 600 Di tích lịch sử như Ải Chi Lăng, Thành Nhà Mạc ... Lạng Sơn từ lâu đã được biết đến là vùng đất giàu tiềm năng, thế mạnh vào loại du lịch tâm linh với hệ thống nhiều đình, chùa. Khắp tỉnh như Đền Bắc Lệ, Đền Kỳ Cùng - Tả Phủ, Đền Mẫu Đồng Đăng, Chùa Tân Thành, Chùa Thành… Cũng là một vùng quê đẹp, với non xanh nước biếc của dòng sông Kỳ Cùng thơ mộng…
Lạng Sơn có khí hậu mát mẻ quanh năm, là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng như Mẫu Sơn, Chóp Chài ... Khí hậu nhiệt đới tạo nên sản vật ở Lạng Sơn cũng rất phong phú như Hoa hồi, Việt Nam. cà ri… Trái cây của Lạng Sơn cũng rất phong phú như mơ Tràng Định, mận Bình Gia, quýt Bắc Sơn, đào Bảo Lâm, đào Mẫu Sơn, mãng cầu Chi Lăng . Ẩm thực nổi tiếng của Lạng Sơn từ lâu đã nổi tiếng với những phong cách riêng như thịt lợn quay, bánh khọt, phở chua ... được công nhận là đặc sản, hấp dẫn hàng đầu Việt Nam.
Trong điều kiện đó, xác định tỉnh có tiềm năng phát triển du lịch trong những năm qua. Tỉnh ủy Lạng Sơn đã xây dựng chủ trương phát triển du lịch thông qua quy hoạch tổng thể.
Phát triển du lịch phải tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các nền kinh tế, các lĩnh vực văn hóa - xã hội; Phải gắn với việc bảo tồn và phát huy văn hóa, truyền thống dân tộc; kết hợp bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. "Từng bước đưa Lạng Sơn trở thành trung tâm giao lưu thương mại quan trọng của miền Bắc, đưa Lạng Sơn trở thành trung tâm du lịch sầm uất của cả nước, không chỉ thu hút du khách đi du lịch Trung Quốc, mà còn thu hút ngày càng nhiều khách du lịch Đông Âu đến với Lạng Sơn. Ngoài việc thưởng ngoạn cảnh đẹp họ còn được tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và con người Lạng Sơn nói riêng và con người Việt Nam nói chung.
Chùa Tiên - Giếng Tiên
Cách cầu Kỳ khoảng nửa km, trên đường đi Mai Pha có những tảng đá hình đầu voi nhô lên giữa cánh đồng. Đó là một ngọn núi lớn, nơi đây có động Chùa Tiên, là một trong những thất thập nhị cung mà Ngô Thì Sĩ đã ghi. Động Chùa Tiên Ngang với núi, cửa vào có 64 bậc, cửa phụ quay về hướng Đông, hiên có cửa ra hồ thu nước. Chùa Tiên có tên chữ là Song Tiên tự, do dân làng Phái Lương thời vua Lê Thánh Tông lập trên núi Đại Tượng cạnh giếng Tiên. Về sau chùa bị hư hại, dời vào núi Đại Tượng hiện nay. Chùa Tiên thờ Phật, Mẫu và Đức Thánh Trần, có bố cục “hậu Phật hậu” gồm tam bảo thờ Phật bên ngoài và điện thờ Mẫu, Đức Thánh Trần bên trong. Nơi đây còn lưu giữ hệ thống văn bia phong phú của các nhà văn, nhà thơ, trong đó có bài “Cảnh thập bát tú” của Ngô Thì Sỹ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Lạng. Hàng năm, chùa Tiên mở hội vào ngày 18 tháng Giêng âm lịch, cùng với các chùa Nhị Thanh - Tam Giáo (15 - 17 tháng Giêng âm lịch) và Tam Thanh (15 tháng Giêng âm lịch) tạo nên một dịp trẩy hội đông vui.
Phía sau núi Voi - chùa Tiên lưng chừng núi trên mặt đá rộng là Giếng Tiên, miệng rộng 20cm với những mạch nước quý chảy quanh năm.
Đền Kỳ Cùng
Tọa lạc tại phường Vĩnh Trại, bờ Bắc sông Kỳ Cùng. Đền được coi là chốn linh thiêng, là nơi thờ thần Giao Long (thần sông nước) với nhiệm vụ giữ mưa thuận gió hòa quanh năm. Lịch sử của Đền còn gắn với câu chuyện về Tuần phủ đại chiến được triều đình nhà Trần cử lên Lạng Sơn, trong thời gian ở Lạng Sơn, tướng giặc thất trận, quân sĩ chết rất nhiều, ông bị vu cáo là dâm ô, đã nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự tử để chứng minh sự trong sạch. Do tấm lòng trong sáng, ông được thần linh hóa thành rắn (ông Cư - ông Long) làm thần sông trú ngụ ở đền Kỳ Cùng. Về sau, ông được một tướng quân nhà Lê, Tả đô đốc Hán Quận công, Quận công Tài nhân (thờ ở đền Tả Phủ) chứng minh, giải oan. Vì vậy, đã thành thông lệ vào dịp lễ hội Kỳ Cùng (cũng từ ngày 22 đến 27 âm lịch như đền Tả Phủ), phải tổ chức lễ rước kiệu Tuần Tranh lớn về đền Tả Phủ để tạ ơn và hầu. Truyện Thân Công Tài.
Trong đền có bến đá Kỳ Cùng là một trong tám cảnh đẹp của Lạng Sơn được ghi trong “bát cảnh kinh kỳ” xưa do Ngô Thì Sỹ gọi là Kỳ Cung Thạch. Sở dĩ như vậy bởi theo sử sách, xưa kia, bất cứ cuộc hành quân hay hành trình nào của sứ thần Trung Quốc đều phải đi qua nơi này. Những chiếc thuyền san sát, hai bên bờ sông lúc nào cũng đông nghẹt người vì dân hay quân tụ tập. Sông Cùng đoạn có nhiều tảng đá chắn giữa sông, đá lô nhô trên mặt nước, sóng vỗ vào đá theo mực nước sông. Dải leng keng, trông rất ngoạn mục. Tương truyền, sứ thần Việt Nam mỗi lần sang Trung Quốc đều dừng chân ở bến đá, chuẩn bị lễ vật để thắp hương ở đền Kỳ Cùng.
Thành Nhà Mạc
Thành nhà Mạc thuộc phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, là di tích kiến trúc quân sự phản ánh thời kỳ phong kiến của Việt Nam. Theo những tư liệu còn lại, thành là một căn cứ quân sự hiểm yếu của con đường độc đạo nối Ải Bắc về phía nam, đo đạc Mạc Kính Cung, được xây dựng vào thế kỷ 16 để làm căn cứ chống Lê - Trịnh.
Dấu tích còn lại gồm hai bức tường thành dài khoảng 300 mét, rộng khoảng 1m, được xây bằng những khối đá lớn nằm giữa hẻm núi, tuy được gia cố, trùng tu nhưng vẫn còn lưu lại dấu tích hoang tàn, đổ nát, để khi đứng trong bóng dương, nhìn phong cảnh một chút, tôi nghĩ về đường xưa xe ngựa. Đường từ chân đồi đến cổng thành giờ nhiều bậc thang thẳng tắp, nhìn lên cổng xa như hun hút, nhỏ bé. Tới nơi có view cực thoáng. Đứng bên trong nhìn ra càng thấy rõ đất đai, trước mặt là thung lũng ruộng lúa, rồi đến xóm làng sầm uất, tiếp đến là núi non, quần sơn nối liền trùng điệp.Những đoạn đứt gãy không đều, cao thấp không bằng nhau, mặt đá phủ rêu đen pha chút xám. Lớp đất bên dưới có màu đỏ sẫm và một ít sỏi nhỏ.
Động Nhị Thanh - Chùa Tam Giáo
Động Nhị Thanh do danh nhân Ngô Thì Sĩ phát hiện và tôn tạo khi làm quan Đốc Trấn Lang từ năm 1777 - 1780. Ông là vị thánh có công lớn trong việc mở mang bờ cõi, ổn định dân cư. khai sinh và xây dựng Lạng Sơn thành khu thương mại sầm uất. Trong thời gian du ngoạn sơn thủy, ông đã phát hiện ra động Nhị Thanh và giúp xây dựng chùa Tam Giáo, Đình Duyệt Quán, Thạch Mai Am, Thủy Tuyết Lăng, Táo Trại. Ngô Thì Sĩ bắt đầu tiến hành tu bổ từ tháng Trọng Thư năm Kỷ Hợi (tức tháng 5 năm 1779 âm lịch) đến tháng Mạnh Thư (tức tháng 7) cùng năm thì hoàn thành.gày 28 tháng 7 năm 1779 âm lịch, Ngô Thì Sĩ tổ chức lễ hội tại đây, trên chùa Tam Giáo tế lễ, trong động Nhị Thanh, tổ chức ăn uống, ca hát, múa rối nước và các trò diễn khác trong 7 ngày đêm. . Trong bia Ma Nhai “Nhị Thanh bút ký” có ghi lại việc này như sau: Vào đêm đầu tiên, có một con hổ to như con bò đến gần động Thông Thiên xung quanh hành lễ rồi quay lại không thấy, nên người ở Đêm không còn sợ hãi; có một Giao Long đỏm dáng, râu đuôi đỏ rực vào phường múa rối nước như muốn xem trò, đuổi bắt không đi, hết trò thì không thấy nữa nên mọi người ơi. được cho là kỳ lạ.
Chùa Tam Thanh
Động Tam Thanh và chùa Tam Thanh là di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh xứ Lạng với câu ca dao :
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh"
Trong độngTam Thanh có một ngôi chùa, tục gọi là chùa Tam Thanh hay còn gọi là chùa Thánh Thiện. Trong sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn chép: “Chùa này nằm trong hang núi đá thuộc xã Vĩnh Trại, châu Thổ Lãng, dân địa phương và dân Minh Hương thờ Phật. thờ tượng, có tên khác là chùa Thánh Thiện ”. Về niên đại: Qua các tài liệu thư tịch cổ, các nhà nghiên cứu cho rằng chùa Tam Thánh có từ thời Lê. Tấm bia có niên đại cổ nhất tại chùa hiện nay là tấm bia "Động Thanh Thiên trùng tu", được chế tác vào năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), nội dung tấm bia ghi lại việc trùng tu di tích, quá có thể nói rằng điều này chùa đã có từ trước.
Nguyễn Lê Liên